Trường đại học đông dương

CHUYÊN MỤC

CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI (355)GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN (161)KINH NGHIỆM SƯ PHẠM (368)Kinh nghiệm đào tạo (240)LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (1.060)Xã hội, nhà nước và pháp luật Việt Nam (793)LUẬT DÂN SỰ (2.462)2. QUI ĐỊNH CHUNG (509)Chủ thể (238)3. VẬT QUYỀN (462)Quyền sở hữu (406)4. TRÁI QUYỀN (889)Trách nhiệm dân sự (269)LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH (346)1. LÝ LUẬN CHUNG (72)2. HÔN NHÂN (95)3. CHA MẸ VÀ CON (99)LUẬT KINH DOANH (1.184)VBPL Kinh doanh (227)LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ & CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ (318)LUẬT TÀI CHÍNH – TÍN DỤNG – CHỨNG KHOÁN – BẢO HIỂM (590)LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ (249)LUẬT ĐẤT ĐAI & KINH DOANH BĐS (323)PHÁP LUẬT QUỐC TẾ (173)PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ (860)LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ (784)5. Quan điểm của Tòa án và về Tòa án (361)PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG VÀ ASXH (324)VĂN BẢN PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI (102)

BÀI ĐƯỢC ĐỌC NHIỀU

FORWARD

GIỚI THIỆUKINH NGHIỆM HỌC TẬP VÀ ĐÀO TẠO LUẬTPHÁP LUẬT – VƯỚNG MẮC TỪ THỰC TIỄN VÀ QUAN ĐIỂMQ & A

LƯU Ý: Nội dung các bài viết  có thể liên quan đến quy phạm pháp luật còn hiệu lực, không còn hiệu lực hoặc mới chỉ là dự thảo.

Bạn đang xem: Trường đại học đông dương

KHUYẾN CÁO: Sử dụng thông tin trung thực, không ngoài mục đích hỗ trợ cho học tập, nghiên cứu khoa học, cuộc sống và công việc của chính bạn.

MONG RẰNG: Trích dẫn nguồn đầy đủ, để kiến thức là năng lực của chính bạn, để tôn trọng quyền của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm, cũng như công sức, trí tuệ của người đã xây dựng trang Thông tin này.


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ĐÔNG DƯƠNG


Posted on 7 Tháng Tám, 2021 by Civillawinfor

LÊ XUÂN PHÁN Cựu nghiên cứu sinh tại Đại học Lyon, Cộng hòa Pháp

Kỳ 1:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ĐÔNG DƯƠNG: 15 năm tỏa sáng ngắn ngủi

“Ta hãy tưởng tượng một diễn đài với những hàng nghế bọc nỉ xanh từ trên cao xuống thấp dần, trước mắt là một sân khấu rộng rãi với một cái bàn rộng lớn phủ nỉ xanh và một chiếc ghế bành đồ sộ, vị giáo sư mặc áo thụng đen, phía trước ngực đeo ngù đỏ và ba hàng băng lông thỏ trắng toát trịnh trọng diễn giảng. Sau lưng ông ta là bức tường hình vòng cung trên vẽ phong cảnh với hàng chữ lớn thiếp vàng tiếng La tinh có nghĩa là: “Đại học ban cho ta kiến thức, phẩm giá, hạnh phúc”. Riêng quang cảnh này cũng đã khiến cho các người nghe trở nên nghiêm nghị, cảm thấy mình đang dự một buổi lễ, không còn ý tưởng phá rối trật tự nữa. Khỏi cần nói là trong bầu không khí trang nghiêm ấy, kẻ diễn giảng dễ có cảm tưởng là mình đang thi hành một sứ mạng cao cả, còn sinh viên ngồi nghe có ảo tưởng là mình thuộc thành phần ưu tú của xã hội. Đây không phải là một xảo thuật của nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương nhằm nêu cao uy tín của nền đại học Pháp mà chỉ là một truyền thống của nền đại học ấy trước khi xảy ra phong trào cách mạng năm 1968”.1

Đoạn hồi ký trên của một cựu sinh viên trường Đại học Luật Đông Dương đã cho chúng ta ngược dòng thời gian để như được chứng kiến không khí một giờ học trên đại giảng đường Đại học Đông Dương thời kỳ trước khi Nhật đảo chính Pháp, một không khí nghiêm trang của lớp Đại học Luật năm thứ nhất.

Vạn sự khởi đầu nan

*
Tin về sự ra đời của trường Đại học Luật Đông Dương trên Pháp viện báo (Revue Judiciaire Franco-Annamite) năm 1932.

Theo GS. Jean Escarrat, khi đến Trường Luật vào cuối năm 1933, ông đã có một báo cáo gửi về Pháp sau đó, ông nhận xét rằng ở Đông Dương cũng như phần đa ở các thuộc địa của Pháp, luôn tồn tại một nhóm người mà có thể gọi là “phái thực dân già” (parti vieux colonial), phái này mong muốn luôn nhìn thấy nhân dân thuộc địa trong điều kiện thấp kém, không được hưởng những lợi ích chung và họ muốn chỉ vài người trong số dân Đông Dương có thể đến được với vị trí cao. Theo ông, đó là một xu hướng trái ngược với việc thành lập trường Đại học Luật Hà Nội.16

Có thể lý giải cho sự chậm chễ này là do mới thành lập, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, trường cần thời gian để chuẩn bị và tổ chức. Hoặc sự ra đi đột ngột của Tổng thống Paul Doumer, người ký sắc lệnh thành lập Đại học Luật Đông Dương cũng có thể là một nguyên nhân. Tuy nhiên cũng có thể có một lý do khác. Theo giáo sư Jean Escarrat, khi đến Trường Luật vào cuối năm 1933, ông đã có một báo cáo gửi về Pháp sau đó, ông nhận xét rằng ở Đông Dương cũng như phần đa ở các thuộc địa của Pháp, luôn tồn tại một nhóm người mà có thể gọi là “phái thực dân già” (parti vieux colonial), phái này mong muốn luôn nhìn thấy nhân dân thuộc địa trong điều kiện thấp kém, không được hưởng những lợi ích chung và họ muốn chỉ vài người trong số dân Đông Dương có thể đến được với vị trí cao. Theo ông, đó là một xu hướng trái ngược với việc thành lập trường Đại học Luật Hà Nội.5

Học luật đã khó, làm luật sư còn khó hơn

Nếu như các Trường Pháp Chính, Trường Cao học khi trước hoàn toàn chỉ dành cho sinh viên Đông Dương thì trường Luật mới được mở còn dành cho cả sinh viên người Pháp để theo học bằng cử nhân luật. Theo giáo sư Le Bras, người được Bộ Thuộc địa giao nhiệm vụ thanh tra trường luật Hà Nội năm 1936, thì ngoài việc đào tạo cử nhân luật, trường còn phải góp phần vào sự tiến bộ về hiểu biết ở Đông Dương và vào sự phổ biến khoa học pháp lý Tây phương ở vùng Viễn Đông.7

*
Gabriel Le Bras (1891 – 1970), một nhà nghiên cứu luật pháp và một thẩm phán có tiếng ở Pháp, người ủng hộ mạnh mẽ việc Đại học Luật Đông Dương cần mở chương trình đào tạo nghiên cứu sinh.

“Tôi ghi danh học chứng chỉ Cao học Tư pháp (Diplôme d’Études supérieures de Droit privé) từ tháng 10 năm 1942, nhưng chỉ có thể đến tham khảo ở Thư viện Đại học hằng ngày cho tới tháng giêng 1943, vì từ lúc đó trở đi tôi phải làm việc ở Phủ Toàn quyền. Học cao học tư pháp luôn luôn phải tra cứu các bộ tạp chí pháp luật Dalloz và Sirey: vì bận đi làm, tôi chỉ có thể tới thư viện chiều thứ bảy và sáng chủ nhật, do đó việc nghiên cứu rất khó khăn, thay vì đậu ngay khóa tháng 5/1943, tôi phải đợi khóa tháng chín năm đó mới đậu nổi và đậu một cách chật vật. Tháng 10 cùng năm tôi ghi danh học chứng chỉ Cao học Kinh tế chính trị, Diplôme d’Études supérieures d’Economie politique. Học chứng chỉ này tôi có thể mượn sách của thư viện để về nhà đọc. Mỗi lần có thể mượn hàng chục cuốn sách(…). Khi đọc sách kinh tế chính trị, tôi thấy hấp dẫn đặc biệt. Tôi còn nhớ có hai cuốn sách đã biến tôi thành một tín đồ nhiệt thành của môn kinh tế học. Cuốn thứ nhất nói về tiền tệ của tác giả Hartley Withers nhan đề What is Money? dịch ra Pháp văn là Qu’est ce que le monnaie (Tiền tệ là gì). Tôi bắt đầu đọc vào buổi tối và say mê đến nỗi thức trắng đêm để đọc cho hết cuốn sách. Cuốn sách của Withers đã thúc đẩy tôi khảo cứu thêm về vấn đề tiền tệ, tín dụng và đặc biệt là các phương pháp mà nhà nước có thể áp dụng để chỉ huy kinh tế qua tiền tệ và tín dụng. Lúc làm luận văn để thi tôi đã chọn đề tài tiền tệ. Giáo sư Khérian phụ trách ban cao học kinh tế rất hãnh diện về cái luận văn của tôi nên yêu cầu tôi đưa thêm cho ông một bản để ông gửi cho ông Gannay, lúc đó làm Tổng Giám đốc Đông Dương Ngân hàng Hà Nội (…). Lúc bấy giờ chủ tâm của ông Khérian chỉ là để khoe với ông Gannay là ban Cao học Kinh tế của trường Luật Hà Nội không phải chỉ hữu danh vô thực, lạm dụng danh hiệu để lập lờ đánh lận con đen. Trái lại, nó có thể đào luyện những chuyên viên có trình độ tương đương với các sinh viên Tiến sĩ ở Pháp”. 31

*
Kết quả đậu cử nhân của của khóa năm 1938, trong đó có tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Bộ môn thứ ba đã kích thích óc hiếu kỳ của tôi là kinh tế học. Hồi đó, tức là năm 1939, môn kinh tế học chưa được giới đại học Pháp coi là một khoa học trưởng thành nghĩa là có những quy luật chính xác ai nấy đều tín cẩn. Môn này còn được gọi là kinh tế chính trị học, Économie politique, nói khác nó là một phần của chính trị học chuyên dạy về những học thuyết kinh tế để giúp cho những kẻ làm chính trị.(…). Môn kinh tế học chỉ được dành một chỗ đứng rất khiêm tốn trong giáo trình của Luật khoa Đại học.( …). Mặc dù vậy, tôi đã rất chú ý tới môn này vì thấy người ta đã giải thích một cách khoa học những sự kiện thông thường trong cuộc sống hằng ngày, như hiện tượng vật giá lên xuống, hiện tượng tiền tệ lưu thông, vv… Mặt khác, qua lịch sử các học thuyết kinh tế, tôi đã có một ý niệm mặc dù mơ hồ về một vài chủ thuyết lúc đó bị nhà cầm quyền thuộc địa nghiêm cấm như chủ thuyết Mác, Ăng Ghen, chủ thuyết Quốc gia kinh tế.” 37

***

Sau khi có chiến tranh nổ ra vào cuối năm 1946, Pháp chiếm đóng lại Hà Nội, trường Luật vẫn duy trì hoạt động tuyển sinh, đào tạo cho đến năm 1954 khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Hà Nội trong hòa bình. Điều này cho thấy việc mở trường luật, ngay từ lúc đầu, là việc làm nghiêm túc của người Pháp khi đó.

Những người có bằng cử nhân luật tại trường Luật Đông Dương được công nhận giá trị như bằng cử nhân luật bên Pháp. Liệu có gì mâu thuẫn không khi mà một nước đến nước khác xâm lược rồi đô hộ và cai trị lại đi mở trường để dạy cho dân thuộc địa về luật như bên nước họ? Thực ra đó là xuất phát từ tư tưởng coi trọng và thực thi quản lý xã hội bằng pháp luật.

Mặc dù, Việt Nam vẫn là một nước bị đô hộ và người dân vẫn phải chịu bất công trong nhiều lĩnh vực. Và, những cuộc khởi nghĩa đòi độc lập dân tộc đều bị đàn áp thẳng tay vào thời kì đó. Tuy nhiên, trong đời sống thường ngày, từng bước đã có các văn bản pháp luật, các quy định và hướng dẫn thực hiện được ban ra để các cá nhân và các tổ chức tuân thủ trong hầu hết các lĩnh vực như tổ chức hành chính, giáo dục, y tế, kinh tế (mở công ty tư, kinh doanh, trường tư), báo chí, thuế, môi trường, vệ sinh, xây dựng, tranh chấp dân sự, gia đình, hôn nhân vv…. Thời đó cũng đã có luật sư tranh tụng trước tòa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân và tổ chức theo luật.

Khi trường Luật ra đời cũng có ý đào tạo các tri huyện có trình độ cử nhân luật, am hiểu pháp luật (sau còn phải học thêm một vài chứng chỉ khác liên quan đến phong tục tập quán mới có thể được thi, tập sự rồi mới được bổ nhiệm làm quan tri huyện). Công bằng để đánh giá thì đó chính là việc nâng cao quản lý xã hội bằng pháp luật. Các ông tri huyện cử nhân luật Tây học sẽ thay dần cho các ông tri huyện theo chế độ quan lại cũ. Phân tích như vậy để thấy thêm được vai trò của trường. Ngoài ra, trường còn giúp cho một bộ phận, dù rất nhỏ, trong giới thanh niên nước ta khi đó được học hỏi, tiếp cận một cách có hệ thống với văn minh pháp quyền phương Tây, văn minh lập pháp. Mà văn minh đó thời nào cũng rất cần thiết để xây dựng xã hội. Bên cạnh đó, các sinh viên luật cũng được học những lĩnh vực khoa học mới mẻ nhưng rất hữu ích như kinh tế chính trị học. Thực tế là một bộ phận các cử nhân luật từ đây ra đã góp phần tích cực, hiệu quả vào việc soạn thảo, góp ý xây dựng hiến pháp tiến bộ năm 1946, hoặc vào cải cách tư pháp của nước ta, bên cạnh đó là vào nhiều lĩnh vực quan trọng trong xây dựng xã hội sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Chú thích:

1 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.156-157.

2 Gouvernement général de l’Indochine, Rapportsau Conseil de gouvernement, (tome 2), 1928, p.396.

4ANP, AJ/16/8339, Rapport sur le Fronctionnement de l’École supérieure de Droit de Hanoi (1932-1933).

5 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur Jean ESCARRA sur le Fronctionnement de l’École supérieure de Droit de Hanoi, le 2 janvier 1934.

6 Gouvernement général de l’Indochine, Rapports au grand Conseil des intérêts économiques et financières et au Conseil de gouvernement, session ordinaire de 1933, Hanoi, Impr Extrême-Orient, 1933, p.106.

7 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur Le Bras (1936)

8 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.152-153.

9 Cụ Vũ Đình Hòe đăng ký học cử nhân luật khoá đầu 1932, vì khóa khai giảng muộn như đã nói, năm 1933 mới bắt đầu và có giáo sư Pháp sang.

10 Tiếng pháp là học vội để thi.

11 Ở đây là những người cùng học Đại học Luật Đông Dương với tác giả, có thể cùng hoặc khác khóa.

12 Vũ Đình Hòe, Thuở lập thân, Nxb Trẻ, 2012, tr.160-161 (để biết thêm đời sinh viên sôi nổi của tác giả Vũ Đình Hòe, xin đọc trong sách này).

13 Chúng tôi sẽ có bài về những cử nhân luật đầu tiên tại Đại học Luật Đông Dương trong một bài sắp tới đây.

14 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur René Cassin sur le fonctionnement de l’École supérieur de Droit, le 3 juin 1939.

Xem thêm: Xa Thi Mạn Lâm Phong - Top 15 Phim Hay Nhất Của Lâm Phong

15 Vũ Đình Hoè, Thuở lập thân, Nxb Trẻ, 2012, tr.172.

16ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur Jean ESCARRA sur le Fronctionnement de l’École supérieure de Droit de Hanoi, le 2 janvier 1934.

17 Le Rectorat d’Académi, Les œuvres culturelles en Indochine, op.cit, p.62.

18 AGEFOM//243, Faculté de Droit.

19 F.R. Giraud et Bui Ngo Hien, Université de Hanoi. Livret de l’étudiant indochinois, 1942-1943, publié par la Direction de l’Instruction Publicque, Hanoi, p.22-23.

20 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.159.

21 F.R. Giraud et Bui Ngo Hien, Université de Hanoi. Livret de l’étudiant indochinois, 1942-1943, publié par la Direction de l’Instruction Publicque, Hanoi, p.26.

22 Từ “agrégé” dịch sang tiếng Việt có khi dùng là thạc sĩ, nhưng như thế có thể bị hiểu lầm là bằng thạc sĩ cao học như hiện nay, tức cao hơn cử nhân một bậc. Thực tế bên Pháp để đạt bằng Agrégé khó và phức tạp hơn, thường thì thí sinh phải có bằng tiến sĩ và có kinh nghiệm rồi mới thi và đậu được. Đây cũng là điểm đặc biệt trong giáo dục của Pháp. Chúng tôi dịch là Bằng chuyên gia cao cấp, hoặc Bằng chuyên môn cao cấp (người có bằng này thì gọi là chuyên gia cao cấp).

23 ANP, AJ/16/8339, Rapport sur la session d’examens de l’École supérieure de Droit (mai 1940).

24 (Báo) Le Figaro, Le Carnet du Firago, no 326, le 22 novembre 1940.

26 ANP, AJ/16/8339, Rapport sur le fonctionnement de la Faculté de Droit de l’Indochine (Pierre Lampué, novembre 1946).

27 Gouvernement général de l’Indochine, Rapports au grand Conseil des intérêts économiques et financières et au Conseil de gouvernement, session ordinaire de 1932, Hanoi, Impr Extrême-Orient, 1935, p.101.

28 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.158.

29 ANOM, Indochine, Nouveau Fonds, Carton 259, dossier 2229.

30 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur René Cassin sur le fonctionnement de l’École supérieur de Droit, le 3 juin 1939.

31 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.194-196.

32 Le Rectorat d’Académi, Les œuvres culturelles en Indochine, op.cit, p.63.33 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.159.

34 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.279.

35 ANP , AJ/16/8339, Rapport sur l’École supérieure de Droit de Hanoi 1937 (de Mr Pirou).

36 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.147.

37 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.153-156.

SOURCE: Tạp chí Tia sáng điện tử (tiasang.com.vn)

Trích dẫn từ:

Kỳ 1: https://tiasang.com.vn/-van-hoa/Truong-Dai-hoc-Luat-Dong-Duong-15-nam-toa-sang-ngan-ngui-26968

Kỳ 2: https://tiasang.com.vn/-giao-duc/Truong-Dai-hoc-Luat-Dong-Duong-Cat-canh-trong-thoi-ky-19391945-27046

(Để thuận lợi trong tra cứu, Civillawinfor có sắp xếp lại thứ tự về chú thích giữa hai kỳ)