NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

TÓM TẮT: Việt nam giới hiện là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, việc gia nhập hội nhập khiếp tế quốc tế giúp các doanh nghiệp mở rộng các ngành nghề, các sản phẩm xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu... Tuy vậy đồng thời cũng mang lại nhiều thách thức đến các doanh nghiệp Việt Nam, như sản phẩm có đáp ứng được quy tắc xuất xứ hàng hóa… Chính phủ vẫn hỗ trợ tối đa đến các doanh nghiệp, tuy nhiên có nắm bắt được cơ hội hay là không lại hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần có những chiến lược phát triển cụ thể, vào đó nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng với môi trường kinh doanh mới là yếu tố quyết định sự “sống còn” của doanh nghiệp. Trong nội dung bài viết này, tác giả đề cập đến một số giải pháp cải thiện năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp việt nam

Từ khóa: Năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp Việt Nam, thị trường xuất khẩu.

*
Qua các bảng xếp hạng và đánh giá có thể thấy Việt phái nam đạt điểm cao nhất là 81 điểm ở tiêu chí “sức khỏe” và điểm thấp nhất là 33 điểm ở tiêu chí “năng lực sáng tạo”.3. Các giải pháp cải thiện năng lực cạnh tranh từ phía doanh nghiệpThứ nhất, về phía nhà quản trị doanh nghiệp: Bản thân mỗi chủ doanh nghiệp cần có ý thức nâng cao trình độ học vấn, các kiến thức chuyên ngành, kiến thức văn hóa, tởm tế, pháp luật và xã hội… Theo kết quả điều tra gớm tế của Tổng cục Thống kê: các doanh nghiệp nhỏ, vừa và rất nhỏ chiếm tỷ trọng lớn nhất 98,1% (507,86 nghìn doanh nghiệp); trong đó doanh nghiệp vừa có gần 8,5 nghìn doanh nghiệp chiếm 1,6%; doanh nghiệp nhỏ là 114,1 nghìn doanh nghiệp chiếm 22,0% và doanh nghiệp khôn cùng nhỏ là 385,3 nghìn doanh nghiệp, chiếm cao nhất với 74,4%. Như vậy, có thể thấy các hiện ni ở nước ta tỷ lệ các doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tỷ lệ lớn nhất, các doanh nghiệp này nhiều phần tăng trưởng các hộ kinh doanh cá thể hoặc xuất phát từ những ý tưởng marketing của cá nhân các chủ doanh nghiệp. Các cá nhân giỏi nhóm cá nhân này có thể có nhiều ý tưởng tởm doanh, có vốn,... Có đủ các điều kiện để tiến hành hoạt động sản xuất - ghê doanh, tuy thế họ lại thiếu những đề án kinh doanh, thiếu mô hình marketing thực tế, thiếu kiến thức về quản lý tài chính kế toán, về các rủi ro pháp lý của doanh nghiệp… thậm chí là một vào số đó còn “vướng rào cản” tức thì từ các thủ tục hành chính.Doanh nhân - những người chủ doanh nghiệp rộng bất cứ ai trong doanh nghiệp cần có ý thức nâng cao trình độ học vấn, trình độ trình độ chuyên môn về lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình, cần tìm hiểu những kiến thức mới, những ứng dụng khoa học kỹ thuật để cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm bỏ ra phí… Họ cũng cần được trang bị đầy đủ các kiến thức về tài chính kế toán, quản trị doanh nghiệp, quản lý nhân sự, hiểu biết về tởm tế phát luật, văn hóa xã hội, văn hóa doanh nghiệp… Họ cần thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, trau dồi những kỹ năng cần thiết để có đủ sức “đứng vững” và nâng cấp năng lực cạnh tranh trên thị trường.Trong những năm gần đây, có rất nhiều các tổ chức đào tạo đã tổ chức các khóa học đào tạo doanh nhân dành cho giám đốc và nhà quản trị doanh nghiệp, các lớp đào tạo chuyên sâu về kế toán tài chính, phân tích báo cáo tài chính, quản trị doanh nghiệp… mà đối tượng học chủ yếu là các chủ doanh nghiệp. Qua đó, cũng có thể thấy các chủ doanh nghiệp cũng đã hướng đến một sự “bài bản” vào việc quản trị doanh nghiệp để cải thiện vị thế của mình.Thứ hai, về phía doanh nghiệp: Cũng xuất phát từ nhận thức của nhà quản trị doanh nghiệp tuy nhiên xét bên trên góc độ doanh nghiệp nói chung thì để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp cần nâng cấp trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp, nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp cũng cần có những chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng cơ hội sản xuất, xuất khẩu vào thời kỳ kinh tế hội nhập như hiện nay. Cụ thể như sau:Một là, nâng cao trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp: vào bối cảnh hiện nay, việc áp dụng phần mềm công nghệ tin tức vào quản lý doanh nghiệp là điều tất yếu và nó sở hữu lại hiệu quả mang đến các doanh nghiệp. Mặc dù nhiên, việc áp dụng những phần mềm quản lý với bỏ ra phí lớn có lẽ không phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vậy nên, trước hết các doanh nghiệp cần tìm mang đến mình những nhân viên cấp dưới phù hợp với yêu cầu công việc cụ thể. Sau đó, nhà quản trị cần có sự hiểu biết về năng lực, trình độ của mỗi nhân viên cấp dưới của mình để có sự phân tầng hệ thống nhân viên, phân loại công việc và giao trách nhiệm đến các bộ phận cụ thể. Nhì là, nâng cấp chất lượng các yếu tố đầu vào: các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất gồm các yếu tố về vốn, nguyên vật liệu đầu vào, nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ. Doanh nghiệp cần tìm những nguồn nguyên vật liệu tốt để đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra nhưng bên cạnh đó cũng yêu cầu tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu mới, vật liệu thay thế với chất lượng đảm bảo. Ví dụ: Hiện nay, nguồn nguyên vật liệu đầu vào của ngành Dệt may hiện nay vẫn bị gò bó đa số là nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản… khi mở rộng quan liêu hệ quốc tế, Việt nam giới sẽ có thể nhập khẩu len từ Australia… Nguồn vốn dồi dào với những phương án sử dụng vốn hợp lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động marketing và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Lúc doanh nghiệp có đủ nguồn lực tài chính thì doanh nghiệp có nhiều cơ hội lựa chọn nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, có nhiều chính sách bán hàng phù hợp để mở rộng mạng lưới khách hàng, tăng lệch giá bán hàng. Trong các yếu tố đầu vào thì nguồn nhân lực là yếu tố nòng cốt để thúc đẩy tăng trưởng. Mọi cải cách, cải tiến đều phải bắt đầu từ cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, bởi vì đó các doanh nghiệp cần chủ động trang bị cho nhân viên cấp dưới của mình những kiến thức cần thiết để sẵn sàng đến các dự định vào tương lai. Trình độ khoa học công nghệ và máy móc trang thiết bị cũng là yếu tố cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, bởi vì với trang thiết bị hiện đại doanh nghiệp cần ít lao động hơn, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nguyên vật liệu đầu vào, đưa ra phí ít hơn, sản phẩm đạt chất lượng tốt hơn…Ba là, cải thiện năng lực cạnh tranh bằng nâng cấp chất lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm ổn định, các chính sách bán hàng và sau bán hàng… doanh nghiệp cần xây dựng tiêu chuẩn về sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, cần có chiến lược thọ dài trong việc “định vị mến hiệu”, tạo dựng uy tín mang đến riêng mình, doanh nghiệp cũng cần có những chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng cơ hội sản xuất, xuất khẩu vào thời kỳ ghê tế hội nhập như hiện nay. Doanh nghiệp cần tìm hiểu thị trường, đặc biệt là các thị trường mới để tận dụng được các cơ hội mà hội nhập tởm tế mang lại như xem xét các quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi và vượt qua các hàng rào thuế phi thuế quan, các biện pháp phòng vệ yêu mến mại của thị trường với các nước đã ký hiệp định tự vày thương mại với Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp chủ động nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn sản phẩm đáp ứng được yêu thương cầu của các nước này thì cơ hội tiếp cận và mở rộng trường sang trọng các nước đó là rất cao.Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần mở rộng quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp khác, với cộng đồng doanh nghiệp để cùng nhau phát triển và hội nhập khiếp tế. 4. Kết luậnQua phân tích ở trên ta nhận thấy, để nâng cấp năng lực cạnh tranh thì các doanh nghiệp nói tầm thường và bản thân nhà quản trị doanh nghiệp nói riêng biệt cần nỗ lực và nỗ lực rộng nữa vào việc nâng cao nhận thức, trình độ của bản thân để quản lý, điều hành và quản trị doanh nghiệp. Đồng thời, cải thiện trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp cũng cần có những chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng cơ hội sản xuất, xuất khẩu vào thời kỳ gớm tế hội nhập như hiện nay. Theo ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng yêu quý mại và Công nghiệp Việt nam giới (VCCI): “Các doanh nghiệp cần phải cầm cố đổi quản trị và nắm bắt tốt tin tức về thể chế nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh. Hãy tập trung vào sáng tạo, tìm lợi nhuận chân chính. Doanh nghiệp phải đảm bảo sự minh bạch, liêm chính, cụ vì tìm những mối quan hệ để tìm kiếm lợi nhuận bất minh. Có như thế doanh nghiệp mới bắt kịp yêu thương cầu của giai đoạn mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:1. Chính phủ (2014), (2015), (2018), Nghị quyết số 19/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường khiếp doanh nâng cấp năng lực cạnh tranh quốc gia.

Xem thêm: Thông Tin 1 Chỉ Vàng 9999 Bao Nhiêu Tiền Mới Nhất, Ngày Hôm Nay Giá Vàng 1 Chỉ Bao Nhiêu Tiền

2. Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường ghê doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021.3. Klaus Schwab, World Economic forum (2018), The Global Competitiveness Report.4. Tổng cục Thống kê, (2017), Báo cáo kết quả điều tra ghê tế năm 2017.5. Và một số bài viết trên http://vov.vn/

SITUATIONS & SOLUTIONS to IMPROVE THE COMPETITIVENESS OF VIETNAMESE ENTERPRISES IN THE CURRENT DEVELOPMENT PERIOD

Master. Kieu Thi TuanFaculty of Accounting - Auditing, Banking Academy

ABSTRACT:Vietnam is a thành viên of many international organizations & the country’s international economic integration has helped enterprises expand their businesses, increase their exports and enter into new international markets. However, this integration process also brings many challenges for Vietnamese enterprises, such as strict rules of origin. Vietnamese government has provided supports for enterprises but enterprises need to lớn seize business opportunities by themselves. It is necessary for enterprises khổng lồ have specific development strategies. In which, improving the competitiveness of enterprises in order to adapt lớn the business environment is the determining factor of the survival of enterprises. This article presents some solutions lớn improve the competitiveness of Vietnamese enterprises in the current development period.Keywords: Competitiveness, Vietnamese enterprises, export markets.