ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH

Trong văn hóa nhân loại xưa nay thường lấy tiền hoặc vàng để triết lý về hạnh phúc. Như thần thoại Hy Lạp kể có vị vua thích vàng gặp được vị thần cho một điều ước, ông ta liền ước chạm tay vào cái gì cái đó liền thành vàng.


Điều ước linh nghiệm. Nhà vua chỉ thỏa mãn chưa được nửa ngày trời. Khi khát cầm cốc nước, nước hóa thành vàng. Khi đói cầm bánh ăn, bánh hóa thành vàng không ăn được. Khi dạo chơi, guốc dép, ngựa nghẽo hóa thành vàng không đi được... Thế là phải xin rút điều ước. Trở về cái bình thường ban đầu, ông ta mới cảm thấy đó là hạnh phúc. Ai cũng thấy ý nghĩa của truyện là vàng không hẳn là sẽ mang lại sự tốt đẹp, thậm chí không biết sử dụng thì sẽ là bất hạnh.

Bạn đang xem: Đồng tiền vạn lịch

Truyện cổ tích “Đồng tiền Vạn Lịch” của ta có gì khác so với thế giới?

Ngày xưa có người lái buôn tên Vạn Lịch giàu có vào hạng nhất, nhì trong nước. Đồ dùng toàn bằng vàng, bạc. Ông có một người vợ trẻ đẹp tên Mai Thị. Chồng có tính ghen nên Mai Thị sống trong nhung lụa mà chẳng sung sướng gì.

Xem thêm: ' Vĩ Tuyến 17 Ngày Và Đêm Full (Không Cắt), Vĩ Tuyến 17 Ngày Và Đêm

*
*
*
*
Minh họa: KHOA AN

Một hôm thuyền buôn đậu ở một bãi vắng. Một người đánh giậm ở đâu đến xin một miếng trầu cho đỡ rét. Thấy cảnh vợ “tình tứ” với trai lạ, cơn ghen nổi lên, Vạn Lịch xỉ vả vợ thậm tệ. Ông ta vứt cho nàng một thoi vàng, một thoi bạc rồi đuổi đi. Mai Thị gặp lại người đánh giậm rồi kết vợ chồng. Họ sống trong túp lều ven sông. Cuộc sống nghèo nàn nhưng cũng tạm ổn. Một lần vô tình người chồng cầm thoi vàng ném gà, người vợ trách sao lại lấy vàng mà ném. Người chồng ngạc nhiên nói, những thứ ấy tôi thấy nhiều ở bãi sông. Người vợ giục chồng đem về. Đó là vàng của Vạn Lịch, chắc do đắm thuyền. Từ đó, vợ chồng giàu có. Nhiều của cải nhưng người chồng đần độn nên chẳng có ai chơi. Một hôm, người chồng làm đổ tượng trong ngôi đền vốn là nơi phát tích của nhà vua. Nhà vua bị đau bại nửa người, không danh y nào chữa được. Vua sai yết thị ai dựng lại được tượng sẽ được thưởng. Anh chồng dựng lại được như cũ. Vợ chồng chỉ xin vua làm chức tuần ty ở sông. Vạn Lịch kinh ngạc gặp người vợ cũ cùng người đánh giậm ngày xưa. Mai Thị mát mẻ: “Biết rằng anh vẫn đi buôn/ Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần/ Dù anh buôn bán xa gần/ Làm sao tránh khỏi cửa tuần em đây”. Vạn Lịch vô cùng xấu hổ. Ông ta làm giấy kê khai tất cả của cải đem biếu Mai Thị để chuộc lỗi xưa, rồi đâm cổ tự tử. Mai Thị hối hận. Nàng đem tất cả tài sản của Vạn Lịch, tâu vua xin đúc một thứ tiền gọi là “Đồng tiền Vạn Lịch” rồi đem phân phát cho những người nghèo khổ. Từ đó ca dao có câu hát: “Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng/ Anh tiếc công anh dan díu với nàng bấy lâu”...

Về chủ đề “cái ghen đàn ông” thì trong văn học viết đã có một “Người con gái Nam Xương” nổi tiếng của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI). Cái anh chàng Trương Sinh nông nổi tin vào lời đứa con ba tuổi (Đản) là chỉ có đêm đến thì cha mới về, mẹ đi thì cha đi, mẹ ngồi thì cha ngồi nên không bao giờ bế Đản. Vì trước đó Trương Sinh phải đi lính trong khi vợ ở nhà có con. Cái ghen bóng ghen gió cứ ấm ức rồi ngày một lớn dần, để rồi Trương Sinh mắng nhiếc người vợ ngoan (Vũ nương) những điều tệ hại nhất về phẩm tiết người phụ nữ. Nàng phải tự tử... Trong cô đơn, trống vắng, vào một tối tê tái buồn trong ngôi nhà có người vừa chết, Trương Sinh đi đi lại lại, bồn chồn, thằng Đản chợt hét toáng lên: “Ba tôi đến kìa!”. Nó chỉ vào cái bóng Trương Sinh trên tường... Sững sờ, thảng thốt, bàng hoàng, chàng gục xuống như cái mầm ghen của thằng đàn ông nhỏ nhen teo tóp thảm hại trước ánh sáng sự thật: Những ngày chàng xa nhà, vợ lấy bóng của mình nói với con về ba nó. Dân gian vẫn nói vợ chồng “như hình với bóng”...Thế mà!!!

Hai hình tượng Trương Sinh (văn học bác học) và Vạn Lịch (văn học dân gian) như hai cánh cửa văn hóa mở ra một thế giới ghen đàn ông mà người đọc bao đời chỉ nên là khách tham quan lướt qua chứ không nên ở lại. Chỉ cần đủ có thời khắc lướt qua mà suy ngẫm, rút bài học. Ở lại sẽ bị “nhiễm” tính ghen thì vợ khổ rồi mình khổ. Thế nên ở cả hai truyện này, tác giả chỉ lấy cái ghen làm điểm tựa kết cấu để dựng lên câu chuyện theo nhiều hướng chủ đề khác.

Người Việt tiểu nông chỉ quen cấy lúa, làm ruộng chất phác, hồn hậu nên ghét kẻ buôn “Thật thà cũng thể lái trâu”. Rõ ràng Vạn Lịch không được thiện cảm: Đã đi buôn lại giàu, thế nên phải là người xấu. Lại có tính ghen thì càng xấu. Nhìn thấy vợ thương người mà giúp người, lẽ ra phải khen, phải phục thì ông ta lại mắng chửi. Đó là trái về đạo làm người. Đuổi vợ là trái về đạo vợ chồng, lẽ ra phải là “tương kính như tân” (kính trọng nhau như khách). Nhưng vẫn còn cái tối thiểu tính người là vứt cho một thoi vàng, một thoi bạc. Như vậy, Vạn Lịch vừa đáng chê, vừa đáng trách! Để hả giận, dân gian cho Vạn Lịch bị sạt nghiệp vì thua lỗ, vì gặp bão to, gió lớn mà đắm thuyền... Đấy là ánh sáng xưa của cổ tích hắt về rồi đọng lại: Ở ác gặp ác! Nhưng ý nghĩa phổ quát thì rộng dài hơn nhiều: Cái quý nhất là hạnh phúc gia đình. Tự mình phá vỡ hạnh phúc, tất sẽ gặp bất hạnh! Vạn Lịch có người vợ quý mà không biết giữ, không biết trân trọng lại ứng xử tàn nhẫn như thế thì gặp hạn là đương nhiên. Hỡi thế giới đàn ông! Đừng như Vạn Lịch! Hãy biết quý trọng vợ mình, tức quý trọng cuộc sống và hạnh phúc của chính mình!

Mai Thị thật đáng thương. Bị đuổi, nàng bơ vơ. Gặp lại người đánh giậm, tất nhiên gá nghĩa vợ chồng. Nhưng cũng không hạnh phúc vì chồng đần độn. Đần đến mức dân gian không cho anh ta một cái tên để gọi. Chỉ gọi là anh đánh giậm. Tên gọi là một ký hiệu ở đời. Không có tên tức anh ta chẳng có ý nghĩa tý tẹo nào với cuộc sống. Vô danh. Ở đây lại phát sáng một ý nghĩa mới: Con người ta phải có học, khi vô học (không biết chữ) thì sẽ không phân biệt được giá trị của cuộc sống (vàng là một giá trị mà anh ta không hề biết đấy là vàng!). Không có cái nền tri thức thì anh chàng đánh giậm ấy chỉ có thể “làm bạn” với những pho tượng câm chứ không thể làm bạn được với người! Thế nên có người trách dân gian “lòng thòng” cho câu chuyện dài ra bằng cách để anh ta mua bún lòng, mắm tôm mời các pho tượng ăn rồi nhét thức ăn vào mồm họ, là không nghệ thuật! Trời ơi! Minh triết dân gian là ở đấy: Những kẻ ngu đần thì chỉ có thể “ăn ở” với các pho tượng vô hồn, vô cảm, vô tri kia mà thôi!

Con người ta khi có ý đồ, dù xấu, dù tốt cũng đều có “kế hoạch”. Mai Thị là người sâu sắc nên khi vua ban cho chức nọ, tước kia, nàng không nhận, chỉ nhận chức tuần ty trên sông. Chức này chỉ cần biết thu tiền, không cần biết chữ nên hợp với chồng nàng. Xa hơn, là một kế hoạch “dằn mặt” chồng cũ. Vì Vạn Lịch buôn bằng thuyền. Quả nhiên cái chủ động của nàng có kết quả. Lời mát mẻ của nàng có thể làm nàng “bõ hờn” một lúc nhưng sẽ làm lương tâm nàng hối hận cả đời: Vạn Lịch tự vẫn!

Thì ra, sự trả thù bao giờ cũng là nhỏ nhen. Dân gian đã thực sự sâu sắc và thâm thúy hơn chúng ta tưởng rất nhiều: Sự bao dung, tha thứ, khoan hòa, nhân hậu bao giờ cũng tốt hơn rất nhiều. Đó là những cánh cửa để mở thông với những thế giới tốt đẹp! Còn không thì ngược lại. Mai Thị đã dựng lên bức tường thù hằn để cự tuyệt với tình nghĩa cũ. Nàng đã đi ngược lại đạo lý thông thường “Vợ chồng một ngày nên nghĩa”!

Nhưng sâu thẳm nàng vẫn là người phụ nữ nhân hậu. Cái hối hận của nàng muộn mằn nhưng đáng quý. Giá mà trong mỗi người đừng có sự nhỏ nhen thù hằn thì sẽ không phải hối hận!

Nhưng Vạn Lịch sao phải chết? Cái chết này cho thấy ông ta cũng cố chấp, nhỏ bé. “Người ta là hoa của đất”, “Người sống đống vàng” cơ mà!? Vì sao phải thế? Cái sự cắt nghĩa chết là để “chuộc lại lỗi xưa” chỉ là bề nổi câu chữ. Cái sâu thẳm bên trong vẫn là triết lý bất hủ của dân gian: Là người đi buôn nên quan tâm nhiều nhất tới lợi nhuận tiền bạc, nên không sâu sắc, thiếu hiểu biết và thiếu bản lĩnh trong ứng xử văn hóa. Ông ta thật đáng trách vì quá coi rẻ mạng sống chính mình (một mạng người để “chuộc lỗi” ghen “thường tình”), cũng thật đáng thương vì mất hết. Một ý nghĩa bật ra: Cái nền tảng, cái gốc của nhân cách con người chính là sự học, là sự hiểu biết, là lòng nhân ái, khoan dung. Vạn Lịch chưa phải là con người như vậy. Một “tý” là ghen! Một sự “sốc” khủng hoảng tinh thần nhất thời đã tự chết!

Cái kết tỏa sáng, cái “đồng tiền vàng” của truyện này chính là hình tượng “Đồng tiền Vạn Lịch”. Thế nên nó được đặt làm tên truyện là đích đáng, khôn ngoan và thật sự thấu nhân tình. Công lao của Mai Thị, cái tâm của nàng, chắc chắn có nước mắt (hối hận) của nàng đã hòa kết chung với tài sản của Vạn Lịch, “máu” của Vạn Lịch để tạo thành “đồng tiền vàng” lóng lánh. Tiền là quý, là giá trị. Vàng là quý, là giá trị. Là đồng tiền vàng thì sự “bảo hiểm” về giá trị cao hơn gấp nhiều lần. Đồng tiền ấy còn được “bảo hiểm” bằng pháp lý (vua cho phép) nên càng muôn lần giá trị. Giá trị ấy lại được đón nhận rộng rãi vì lan tỏa tới muôn người (phân phát cho những người nghèo). Tiền giấy sẽ mất nhưng tiền vàng là vĩnh cửu để khẳng định cái vĩnh cửu hơn, giá trị hơn là tình người nói chung, tình nghĩa vợ chồng nói riêng!

“Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng/ Anh tiếc công anh dan díu với nàng bấy lâu”. Tại sao không phải là “khắc” mà lại là “thích”? Lại thuộc về phạm trù triết học ngôn ngữ, xin bàn đến vào một dịp khác!