Home / Tổng hợp / nhà lý tồn tại bao nhiêu nămNhà lý tồn tại bao nhiêu năm14/09/2022 Nhà Lý đôi khi gọi là nhà Hậu Lý (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều đại trong nền quân chủ Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm. Lý Thái Tổ (974-1028) Tên đầy đủ: Lý Công Uẩn Niên hiệu: Thuận Thiên Thụy hiệu: Thần Vũ Hoàng đế Miếu hiệu: Thái Tổ Sinh: 8 tháng 3 năm 974 Từ Sơn, lộ Bắc Giang , Đại Cồ Việt Mất: 31 tháng 3, 1028 (54tuổi) Điện Long An, Thăng Long, Đại Cồ Việt Tại vị: 21 tháng 11 năm 1009 – 31 tháng 3 năm 1028 (18 năm, 131 ngày) An táng: Thọ Lăng Vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam Lý Thái Tổ (8 tháng 3 năm 974 – 31 tháng 3 năm 1028) tên thật là Lý Công Uẩn là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028. Xuất thân là một võ quan cao cấp dưới triều Nhà Tiền Lê, năm 1009, nhân khi vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ, Lý Công Uẩn được lực lượng của Đào Cam Mộc và thiền sư Vạn Hạnh tôn làm hoàng đế. Trong thời kỳ trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của các tộc người vùng biên cương. Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm 1010 và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại 216 năm. Lý Thái Tông (1000-1054) Tên đầy đủ: Lý Phật Mã, Lý Đức Chính Niên hiệu: Thiên Thành (1028 - 1033)Thông Thụy (1034 - 1038)Càn Phù Hữu Đạo (1039 - 1041)Minh Đạo (1042 - 1043)Thiên Cảm Thánh Vũ (1044 - 1048), Sùng Hưng Đại Bảo (1049 - 1054). Thụy hiệu: Miếu hiệu: Thái Tông Sinh: 29 tháng 7 năm 1000, Hoa Lư, Đại Cồ Việt Mất: 3 tháng 11 năm 1054 (54tuổi), Điện Trường Xuân, Thăng Long, Đại Cồ Việt Tại vị: 1 tháng 4 năm 1028 – 3 tháng 11 năm 1054 (26 năm, 216 ngày) An táng: Thọ Lăng Lý Thái Tông (29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị trong 26 năm (1028–1054). Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, thời đại của ông, con ông là Lý Thánh Tông, cháu ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của nhà Lý, sử gọi thời kỳ này là Bách niên Thịnh thế. Hoàng đế Thái Tông được mô tả uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua loạn ba vương mà lên ngôi, công danh rạng rỡ triều Lý. Ông củng cố quyền lực cho nhà Lý, bên trong dùng chính sách hòa thân, gả công chúa cho các quan Châu mục, bên cạnh đó còn dẹp loạn đảng làm phản như Loạn họ Nùng; bên ngoài Đế đánh được Chiêm Thành, công tích đánh dẹp uy nghi, tiền đề cho các đời sau phát triển phồn thịnh. Lý Thánh Tông (1023-1072) Tên đầy đủ: Lý Nhật Tôn Niên hiệu: Long Thụy Thái Bình (1054-1058), Thiên Thánh Gia Khánh (1059-1065), Long Chương Thiên Tự (1066-1068), Thiên Thống Bảo Tượng (1068-1069), Thần Vũ (1069-1072) Thụy hiệu: Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Trường Minh Văn Duệ Võ Hiếu Đứng Thánh Thần Hoàng đế Miếu hiệu: Thánh Tông Sinh: 30 tháng 3 năm 1023 Mất: 1 tháng 2 năm 1072 (48tuổi) Tại vị: 3 tháng 11 năm 1054 – 1 tháng 2 năm 1072 (17 năm, 90 ngày) An táng: Thọ Lăng Lý Thánh Tông (30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị vì từ tháng 11 năm 1054 đến khi qua đời năm 1072. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, Lý Thánh Tông đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, khoan giảm hình phạt, đồng thời bảo trợ Phật giáo và Nho giáo. Ông còn xây dựng quân đội Đại Việt hùng mạnh, thực hiện chính sách đối ngoại cứng rắn với Đại Tống và mở đất về ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (nay là một phần thuộc Quảng Bình và Quảng Trị, Bắc Trung Bộ Việt Nam) sau thắng lợi trong cuộc chiến tranh Việt - Chiêm (1069). Sử thần đời Hậu Lê Ngô Sĩ Liên viết về Lý Thánh Tông: "Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt". Thời đại của cha ông là Lý Thái Tông, ông và con ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế. Lý Nhân Tông (1066-1128) Tên đầy đủ: Lý Càn Đức Niên hiệu: Thái Ninh (1072-1076), Anh Vũ Chiêu Thắng (1076-1084), Quảng Hựu (1085-1092), Hội Phong (1092-1100), Long Phù (1101-1109), Hội Tường Đại Khánh (1110-1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127-1127) Thụy hiệu: Hiếu Thiên Thể Đạo Thánh Văn Thần Vũ Sùng Nhân Ý Nghĩa Hiếu Từ Thuần Thành Minh Hiếu Hoàng Đế Miếu hiệu: Nhân Tông Sinh: 22 tháng 2 năm 1066, Cung Động Tiên, Thăng Long Mất: 15 tháng 1 năm 1128 (61tuổi), Điện Vĩnh Quang, Thăng Long Tại vị: 1072 – 1128 An táng: Lăng Thiên Đức Lý Nhân Tông (22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại Việt từ năm 1072 đến năm 1128, tổng cộng 56 năm, cũng là vị vua có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Dưới thời trị vì của Nhân Tông, nước Việt phồn vinh, "dân được giàu đông". Ông rất quan tâm đến nông nghiệp – thủy lợi, đã cho đắp đê ở nhiều nơi và mở rộng luật cấm giết trâu. Thời Nhân Tông còn nổi bật với việc tổ chức khoa thi Nho học đầu tiên của Đại Việt (1075) và xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám (1076). Phật giáo cũng phát triển; nhà vua và mẹ là Linh Nhân đều là những Phật tử mộ đạo, đã cho xây nhiều chùa tháp và khuyến khích việc hành đạo của các thiền sư. Về đối ngoại, năm 1075, đế quốc Tống dòm ngó Đại Việt, Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đi đánh, liên tiếp phá tan quân Tống ở 3 châu Ung, Khâm, Liêm (đất Tống) và sông Như Nguyệt (đất Việt). Sau năm 1077, giữa Việt và Tống không còn cuộc chiến lớn nào. Trong khi đó các nước Chiêm Thành, Chân Lạp thần phục Đại Việt, thường gửi sứ sang cống. Tuy ở ngôi lâu năm, Lý Nhân Tông không có con trai để nối dõi. Ông nhận nuôi một người cháu là Lý Dương Hoán rồi lập làm thái tử. Đó là Lý Thần Tông, làm vua trong vòng 11 năm sau khi Nhân Tông mất. Thời đại của Lý Nhân Tông cùng với ông nội là Lý Thái Tông và cha là Lý Thánh Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế. Lý Thần Tông (1116 – 1138) Tên đầy đủ: Lý Dương Hoán Niên hiệu: Thiên Thuận (1128-1132), Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138) Thụy hiệu: Quảng Nhân Sùng Hiếu Văn Vũ Hoàng đế Tôn hiệu: Thuận Thiên Quảng Vận Khâm Minh Nhân Hiếu Hoàng đế, Thuận Thiên Duệ Vũ Tường Linh Cảm Ứng Khoan Nhân Quảng Hiếu Hoàng đế Miếu hiệu: Thần Tông Sinh: năm 1116, Thăng Long Mất: 31 tháng 10 năm 1138, Điện Vĩnh Quang, Thăng Long Tại vị: 1128 – 1138 An táng: Thọ Lăng